Giáo Dục

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở Tiểu học

Tải về Bản in

THPT Đông Thụy Anh.vn xin gửi tới bạn đọc bài viết một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết nêu rõ một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học ở trường tiểu học. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết bài viết để có thể viết được bài thu hoạch tốt nghiệp lớp quản lý giáo dục cho mình.

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở Tiểu học gồm các mẫu giải pháp của các thầy cô giáo giúp các bạn tham khảo, để có thêm những biện pháp, kinh nghiệm dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học.

  • Mẫu nhận xét học sinh tiểu học theo Thông tư 27
  • Mẫu kế hoạch chuyên môn tiểu học
  • Mẫu bài tiểu luận cuối khóa bồi dưỡng cán bộ quản lý Tiểu học
  • Mẫu báo cáo thực tập sư phạm Tiểu học

1. Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học Tiểu học

PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ

Trên thế giới và trong nước ngày càng phát triển mọi mặt, trong đó giáo dục cùng với khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất thay cho lao động chân tay, có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống con người. Hiện nay các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng giáo dục luôn đưa ra những yêu cầu mới, những chuẩn mới nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục cho các trường học. Ở nước Mỹ đặt trọng tâm vấn đề cải cách giáo dục vào các trường học, ở Singapore đứng đầu châu Á trong việc chuẩn bị kỹ năng tốt nhất cho công việc tương lai của học sinh, sinh viên, và các nước như: New Zealand, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc,… trong đó có Việt Nam.

Trong giai đoạn xã hội hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Đảng và nhà nước luôn quan tâm và chú trọng đến giáo dục. Với chủ đề của năm học là “Tiếp tục đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục” đối với giáo dục phổ thông. Mà trong hệ thống giáo dục quốc dân, thì bậc tiểu học là bậc nền tảng, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng là bước đầu hình thành nhân cách con người cũng là bậc học nền tảng nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu biết nhất định về nội dung chương trình sách giáo khoa, có khả năng hiểu được về tâm sinh lí của trẻ, về nhu cầu và khả năng của trẻ. Đồng thời người dạy có khả năng sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Là một giáo viên, tôi nhận thấy bản thân giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong giảng dạy ở nhà trường. Làm thế nào để đẩy mạnh sự phát triển giáo dục nói chung và làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói riêng, đặc biệt là công tác mũi nhọn của lớp, của trường. Hiện nay chủ trương của ngành là dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học. Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh:

+ Căn cứ chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình lồng ghép giáo dục vệ sinh môi trường, rèn kĩ năng sống cho học sinh, Bác Hồ và những bài học về đạo đức, lối sống dành cho học sinh.

+ Coi trọng sự tiến bộ của học sinh trong học tập và rèn luyện, động viên khuyến khích không gây áp lực cho học sinh khi đánh giá. Tạo điều kiện và cơ hội cho tất cả học sinh hoàn thành chương trình và có những mảng kiến thức mở rộng dành cho đối tượng học sinh có khả năng.

Ngoài ra trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tiểu học căn cứ vào những nhận thức mới của học sinh về đạo đức, học tập và rèn luyện ở các em, căn cứ vào năng lực tổ chức, thiết kế và những hoạt động trong quá trình dạy học của giáo viên. Vẫn còn không ít giáo viên bị ảnh hưởng nặng nề bởi phuương pháp dạy học truyền thống. Mà họ không hiểu rằng việc đổi mới phương pháp dạy học tức là dùng phương pháp dạy học mới một cách hợp lí để tạo cho người học lòng sai mê học tập, ham hiểu biết, óc tò mò để có khả năng và phương pháp học tập, tạo ra sự phát triển mới để nâng cao hiệu quả giáo dục phù hợp với bối cảnh của xã hội mà vẫn giữ được sự ổn định trong hoạt động dạy học. Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cái hiện hành mà phải thừa kế sự phát huy những thành tựu đã đạt được. Đồng thời tạo ra được sự phối hợp chặc chẽ giữa phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp hiện đại.

Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn của lớp. Tôi mạnh dạn chọn chủ đề nghiên cứu là: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở trường tiểu học” nhằm góp một phần nhỏ đẩy mạnh sự phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng dạy – học và đẩy mạnh công tác mũi nhọn của đơn vị.

PHẦN HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Thực trạng công tác dạy và học trong trường Tểu học 1 xã Hiệp Tùng.

1. Ưu điểm

Mặc dù cơ sở vật chất của nhà trường còn hạn chế nhưng tập thể cán bộ giáo viên Trường Tiểu học 1 xã Hiệp Tùng đã không ngừng phấn đấu để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ và đặc biệt là chú trọng nhất về nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Có 100% cán bộ – giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn trong hè nên nắm vững cách thực hiện đổi mới phương pháp dạy, dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học; đổi mới cách đánh giá học sinh, coi trọng sự phá triển và tiến bộ của học sinh.

Ngoài nắm vững chuyên môn giáo viên còn nghiên cứu, tìm hiểu về đối tượng học sinh, chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện nội dung chương trình của từng môn học, mạnh dạn đăng kí chỉ tiêu phấn đấu trên đối tượng học sinh của lớp mình.

Việc đổi mới phương pháp dạy học từ trước đến nay, đa số giáo viên đã cải tiến phương pháp dạy học áp dụng hiệu quả thiết bị dạy học và đồ dùng tự làm, tích cực học tập, trao đổi kinh nghiệm ở đồng nghiệp và qua mạng Internet,… vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh đã được tất cả giáo viên quan tâm và mạnh dạn áp dụng. Phương pháp dạy học nêu vấn đề, dạy theo nhóm, dạy ngoài hiện trường liên hệ thực tế,… lối dạy ấy đã thu hút sự chú ý, óc tò mò, hứng thú học tập của học sinh hơn, tạo điều kiện cho các em động não, phát hiện ra kiến thức và chiếm lĩnh kiến thức, tạo niềm tin học tập cho các em. Thực tế qua đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại kết quả khả quan về chất lượng giáo dục trong lớp và nhà trường.

Cơ sở vật chất còn hạn chế nhưng giáo viên đã tận dụng tạo môi trường học tập, môi trường vui chơi an toàn cho học sinh.

Học sinh có đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập, hăng hái tham gia xây dựng bài học, biết tự nhận xét đánh giá mọi hoạt động của mình, của bạn.

Ngày nay, công tác xã hội hóa giáo dục có sự chuyển biến mới. Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình. Đồng thời đã đóng góp không nhỏ về tiền của để mua sắm trang thiết bị dạy học trong nhà trường, năng cấp cơ sở vật chất, tạo điều kiện tốt cho việc vui chơi và học tập của học sinh.

2. Một số hạn chế và nguyên nhân hạn chế:

Những năm học bắt đầu thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông bắt đầu từ lớp 1. Tất cả giáo viên được tham gia tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về dạy học theo chương trình mới một cách kĩ lưỡng. Nhưng khi vào thực tế giảng dạy nhiều giáo viên còn lúng túng nhất là khâu đổi mới phương pháp dạy học, dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chỉ lo tập trung vào phần việc của mình, cứ lo sợ dạy không hết bài, học sinh không biết, không nắm và tiếp thu được bài,… cứ như thế là vào tiết học giáo viên thao thao giảng bài, đọc cho học sinh chép những nội dung cần ghi nhớ, cần biết yêu cầu các em về học thuộc lòng, có những giáo viên nhận thức được đổi mới phương pháp dạy học là dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dưới sự hướng dẫn, nêu vấn đề của người dạy, người học động não, tự tìm cách giải quyết vấn đề để chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng kiến thức mới vào thực tiễn.

Gắn liền với đổi mới phương pháp dạy học là việc sử dụng thiết bị dạy học, đồ dùng dạy học. Thế nhưng không ít giáo viên còn chưa sử dụng, chưa khai thác triệt để thiết bị, đồ dùng vào các tiết dạy mà chỉ dạy chay hoặc sử dụng khi có người dự giờ, khi sử dụng lại có những giáo viên sử dụng vụng về, lúng túng, rồi khai thác một cách qua loa, máy móc làm cho tiết học trở nên rời rạc, khô chán không phát huy được tính tích cực, sự hứng thú học tập của học sinh. Không có thiết bị để ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.

Trong quá trình xây dựng kế hoạch bài dạy, giáo viên chưa thoát li được sách giáo viên, sách tham khảo, mà còn có những giáo viên coi sách giáo viên như một pháp lệnh, không được xê dịch hay sửa đổi. Chép nguyên mục tiêu và các hoạt động trong sách mà không cần biết bài dạy đó có phù hợp với học sinh của mình không mà không bỏ thời gian ra nghiên cứu nội dung bài học sách giáo khoa, liên hệ từng đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch dạy học cho từng môn học, hay thiết kế bài dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp. Không nghiên cứu nội dung sách giáo khoa để xác định mảng kiến thức trọng tâm của bài, liên hệ sự tiếp thu của học sinh rồi lựa chon phương pháp dạy học để phát huy tích cực sự vận động suy nghĩ của từng đối tượng học sinh tránh nhàm chán ở học sinh. Vì trong lớp học có tới ba, bốn khả năng tiếp thu và khả năng nhận thức cụ thể như: học sinh Hoàn thành tốt, học sinh Hoàn thành, học sinh Chưa hoàn thành và học sinh có năng lực. Ngoài ra trong quá trình lập kế hoạch bài dạy do không nghiên cứu kĩ lưỡng nội dung bài nên việc chuẩn bị trang thiết bị, đồ dùng dạy học không có hoặc không phù hợp, thậm chí có nêu ở chuẩn bị trong kế hoạch mà qua hết một tiết dạy không thấy giáo viên sử dụng ở hoạt động nào (chổ nào).

Bên cạnh những việc tồn tại ở khâu lập kế hoạch giảng thì cũng không thể không đề cập đến vấn đề kiểm tra, đánh giá, nhận xét học sinh. Một số giáo viên dù nắm được, hiểu được hướng dẫn chỉ đạo của Thông tư số 30/2014/TT-GDĐT ngày 28/ 8/ 2014 và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22/ 9/ 2016 của Bộ GD-ĐT về Quy định đánh giá học sinh tiểu học , Quyết định số 16 quy định về chuẩn kiến thúc kĩ năng các môn học ở bậc tiểu học ấy thế nhưng trong quá trình đánh giá họ không căn cứ vào những tiêu chí hướng dẫn của văn bản để đánh giá, mà đánh giá chỉ dựa vào cảm tính, quan sát chung chung, thiếu căn cứ, thiếu tính chính xác. Thậm chí việc kiểm tra, đanh giá còn dựa trên tình cảm, cả nể mà đánh giá không đúng thực lực của học sinh. Và mặc dù trong những năm học vừa qua các trường chỉ đạo thực hiện tốt cuộc vận động hai không và bốn nội dung. Vậy mà còn không ít giáo viên vẫn còn để xảy ra tiêu cực trong kiểm tra, trong đánh giá xếp loại nhất là trong xét khen thưởng ở cuối năm. Đến vào đầu năm học mới có rất nhiều học sinh bị hụt hẫng về kiến thức nên rất khó cho việc giảng dạy của giáo viên ngoài ra còn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục.

Mặt khác giáo viên chưa nghiên cứu sâu về tâm lý từng học sinh để có biện pháp giảng dạy và giáo dục tốt hơn.

Đa số học sinh còn phụ thuộc vào khuôn mẫu, bắc chước, chưa có ý thức tự giác học tập, lại được phụ huynh đồng thuận mua sắm cho sách giải, sách tham khảo, các em lại sao chép.

Do còn không ít phụ huynh thiếu trách nhiệm, thiếu sự phối hợp để giáo dục học sinh, gây sức ép không nhỏ đối với giáo viên.

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CỦA Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC 1 XÃ HIỆP TÙNG.

1. Giải pháp về xây dựng đội ngũ trong tập thể sư phạm.

Trường học – tổ chức cơ sở của hệ thống giáo dục – nơi tập trung những người thực hiện nhiệm vụ chung: dạy và học, giáo dục và đào tạo những nhân cách theo mục tiêu đề ra. Mà giáo viên là lực lượng nồng cốt tham gia và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển về trí tuệ, hiểu biết và nhân cách con người; là người không chỉ thực hiện nhiệm vụ của bản thân, với gia đình, với học sinh, phụ huynh học sinh mà còn thể hiện nhiệm vụ với xã hội, với vận mệnh và tương lai của đất nước. Chính vì vậy công tác xây dựng đội ngũ trong nhà trường là vấn đề quan trọng. Vì có một tập thể đoàn kết thì mới có một tập thể vững mạnh, mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học. Mỗi cá nhân là một thành viên tích cực nêu cao quan điểm, mạnh dạn bày tỏ ý kiến đóng góp, xây dựng cho đồng chí, đồng đội, cùng phát triển về công tác chuyên môn (về thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, về biện pháp giáo dục học sinh,…), quan tâm giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn cùng nhau hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, có một tập thể đoàn kết mới hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của năm học. Có sự đoàn kết, thống nhất như vậy sẽ góp phàn nâng cao nhận thức về chuyên môn, nâng cao khả năng giảng dạy của giáo viên, quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường.

Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo viên, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, khuyến khích giáo viên đọc sách báo, tham khảo tài liệu về chính trị, văn hóa, pháp luật,…

Phân công chuyên môn phù hợp với năng lực, sở trường của từng giáo viên, tạo mọi điều kiên thuận lợi cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công. Đi kèm theo công tác phân công chính là công tác kiểm tra đánh giá kết quả lao động của cá nhân, tập thể được phân công, để đánh giá mức độ hoàn thành công việc như thế nào. Từ đó có bài học kinh nghiệm cho bản thân đồng thời kịp thời phát hiện năng lực của giáo viên và có kế hoạch bồi dưỡng phát huy hoặc khuyến khích giáo viên tiến bộ.

Thường xuyên mở các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, các buổi thao giảng, phối hợp mở các buổi hội giảng trao đổi về phương pháp giảng dạy, biện pháp giáo dục học sinh.

Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập, giáo lưu trao đổi kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.

Thực hiện tốt công tác dân chủ trong nhà trường. Có biện pháp, chế độ tùy theo kết quả, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được phân công, tham mưu tốt với ban ngành đoàn thể đảm bảo quyền lợi của anh chị em trong lao động.

2. Giải pháp về hoạt động giảng dạy của giáo viên:

a. Về xây dựng nền nếp, kỷ cương trong hoạt động giảng dạy của giáo viên.

– Xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường. Quy chế chuyên môn trong nhà trường là một trong những công cụ để đánh giá quá trình lao động của người giáo viên. Việc thực hiện tốt quy chế chuyên môn trong nhà trường của giáo viên là yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng và hiệu quả của công tác giảng dạy.

– Trên cơ sở: Quyết định 14 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tao Quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học ngày 04 tháng 05 năm 2007 của Quyết định 16 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tao về việc Vi phạm đạo đức nhà giáo ngày 16 tháng 04 năm 2008; căn cứ điều lệ trường tiểu học; căn cứ văn bản chỉ đao của lãnh đạo Phòng GD&ĐT và căn cứ tình hình thực tế của đơn vị. Hiệu trưởng xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường như quy định về đạo đức, tác phong sư phạm, tác phong của nhà giáo, quy định giờ ra vào lớp, quy định về hồ sơ sổ sách, lịch trình duyệt các kế hoạch. Giáo viên soạn giảng đủ môn, đủ tiết, số tiết dự giờ (rút kinh nghiệm, dự giờ để đánh giá), số lần tham gia sinh hoạt chuyên môn duy trì sĩ số lớp,…

– Phát động phong trào Thi đua Dạy tốt – Học tốt, tiến hành bàn giao số lượng, chất lượng (cụ thể từng đối tượng học sinh về năng lực, về phẩm chất, về sở trường, về cá tính của học sinh,…) của lớp dưới lên lớp trên để giáo viên mới có cơ sở xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm của năm học, đăng kí chỉ tiêu phấn đấu, xây dựng kế hoạch giảng dạy.

– Phối hợp với Ban chấp hành công đoàn phát động phong trào “Kỷ cương – Tình thương – Trách nhiệm”. Qua đó vận động giáo viên chấp hành nghiêm túc quy chế chuyên môn của nhà trường.

b. Về thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy của lớp học:

Việc tố chức thực hiện chương trình và xây dựng kế hoạch giảng dạy của giáo viên là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục trong nhà trường nên Hiệu trưởng phải dựa trên cơ sở như: căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, các chỉ thị của ngành, của địa phương, căn cứ vào đặc điểm tình hình của đơn vị để xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình sao cho vừa đảm bảo chất lượng, vừa đảm bảo hoàn thành chương trình theo tinh thần chỉ đạo của ngành.

Dự kiến những vấn đề có thể nảy sinh, biện pháp khắc phục, biên chế nội dung chương trình cho cả năm học và cho tùng thời điểm, lập thời khóa biểu cho các khối lớp, phân phối chương trình.

Tập trung nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo về chuyên môn, nghiên cứu về nội dung chương trình sách giáo khoa, căn cứ đặc điểm tâm lí của trẻ. Cùng với tổ chuyên môn, giáo viên phối hợp với kế hoạch của nhà trường xây dựng kế hoạch giảng dạy, kế hoạch hoạt động phù hợp với đối tượng học sinh. Thực hiện chương trình một cách vừa và đủ đảm bảo tham gia các hội thi mà cấp trên tổ chức như: thi viết chữ đẹp, thi Trạng nguyên nhỏ tuổi, thi IOE Tiếng anh, thi Volympic Toán qua mạng, Toán tuổi thơ cấp huyện, cấp tỉnh đối với lớp 5,…

Cùng với tổ chuyên môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo điều lệ trường tiểu học, nội dung sinh hoạt đa dạng phong phú: trao đổi về phương pháp dạy học, trao đổi về kết quả nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa, trao đổi về phương pháp xác định mục tiêu của bài học – xác định mảng kiến thức trọng tâm của một bài, một môn, trao đổi về biện pháp giáo dục học sinh hướng dẫn học sinh trong học tập cũng như trong rèn luyện.

c. Về thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên và việc lựa chọn đồ dùng dạy học của giáo viên:

Thiết kế bài dạy và chẩn bị giờ lên lớp của giáo viên là việc làm quan trọng, thực hiện quy chế chuyên môn trong trường tiểu học. Là khâu mà bất kì giáo viên trực tiếp giảng dạy nào cũng phải có, vì trong quá trình thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp giúp giáo viên có sự chuẩn bị, sự nghiên cứu về nội dung, tuy nó chưa phải là dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy để có biện pháp xử lí kịp thời đúng đắn. Và thiết kế bài dạy được xem là công cụ để thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, thể hiện sự sáng tạo của giáo viên và cũng là một trong những việc làm góp phần quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường. Do đó cần tập trung chỉ đạo việc thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên cụ thể như sau:

Triển khai các văn bản, các yêu cầu cơ bản về việc thiết kế bài dạy, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông vào soạn giảng đến tổ khối, giáo viên.

Kế hoạch bài giảng của giáo viên phải thể hiện:

– Mục tiêu đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng của bài học dành cho đối tượng học sinh trong lớp.

– Tăng cường trang bị về thiết bị, đồ dùng dạy học, khuyến khích gíao viên đẩy mạnh công nghệ thông tin vào giảng dạy. Khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học phải phù hợp với nội dung bài, đồng thời trong quá trình chuẩn bị phải thể hiện được đồ dùng phục vụ cho người dạy và đồ dùng phục vụ cho người học. Vì đồ dùng dạy học rất quan trọng trong việc dạy học ở tiều học giúp học sinh nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, đến thực tiễn. Ngoài đồ dùng trực quan sinh động mà giáo viên đã chuẩn bị thì còn hình ảnh trực quan sinh động hơn là người giáo viên: cần có ngoại hình cân đối, giọng nói nhẹ nhàng, ngọt ngào, cử chỉ mềm mại, điệu bộ duyên dáng, thái độ ân cần,… sẽ thu hút sự chú ý học tập của học sinh cao hơn, tăng thêm sự hứng thú nhận thức của trẻ.

– Nội dung cơ bản của kế hoạch phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài, dự kiến thời gian của từng hoạt động; mỗi hoạt động đều thể hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên. Không ghi những vấn đề không cần thiết.

– Nội dung kế hoạch ngắn gọn, xúc tích đảm bảo nội dung trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy (thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy – trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học, lớp học, với đối tượng học sinh).

– Hướng dẫn soạn những bài khó, tổ chức trao đổi, thống nhất chung các vấn đề liên quan đến giờ lên lớp, giúp đỡ giáo viên nhận lớp mới.

– Thực hiện quy định thời gian kí duyệt kế hoạch giảng dạy của giáo viên trước khi lên lớp thực hiện tiết dạy.

d. Về thực hiện giờ lên lớp của giáo viên:

Giờ lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản và chủ yếu nhất của quá trình dạy học để thực hiện mục tiêu dạy học.

Trong nhà trường tiểu học hoạt động dạy và hoạt động học là hai hoạt động nó là hoạt động chính. Hiện nay quá trình dạy học chủ yếu đa số là diễn ra trong lớp học. Giờ lên lớp quyết định chất lượng dạy học cơ bản, trong đó giáo viên là người trực tiếp quyết định và chịu trách nhiệm. Do vậy, giờ lên lớp thể hiện rõ nhất trách nhiệm và khả năng của giáo viên. Vì vậy giờ lên lớp của giáo viên cần thực hiện như:

– Tự xây dựng nền nếp giờ lên lớp, thực hiện kiểm soát giờ lên lớp bằng thời khóa biểu, bám sát vào phân phối chương trình, kiểm tra kế hoạch, kiểm tra các loại hồ sơ sổ sách có liên quan đến giờ lên lớp, đảm bảo chế độ giờ lên lớp (23 tiết/tuần đối với GV chuyên, 20 tiết/tuần đối với GV chủ nhiệm lớp). Tránh trường hợp giáo viên bỏ lớp, giáo viên thực hiện không nghiêm túc chương trình (nhắc nhở, xử lý).

– Thực hiện tốt kỉ luật lao động trong nhà trường, khuyến khích việc giáo viên thực hiện tốt giờ lên lớp.

– Thực hiện chương trình đảm bảo đúng quy chế chuyên môn, quy định của ngành. Duy trì và thực hiện tốt giờ lên lớp.

e. Về bồi dưỡng qua việc dự giờ của giáo viên:

Dự giờ là công việc đặc thù, cơ bản, là biện pháp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho mỗi cá nhân giáo viên một cách hiệu quả nhất.

Căn cứ vào điều lệ Trường tiểu học thì đối với giáo viên số tiết dự giờ ít nhất 1 tiết/tuần, đối với tổ chuyên môn ít nhất 2 tiết/tuần.

Để công tác dự giờ có hiệu quả, trước khi dự giờ giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài, xác định mục tiêu, xác định mảng kiến thức trọng tâm, lựa chọn phương pháp, đồ dùng dạy học, dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình dự giảng dạy.

Tiến hành dự giờ: khi dự giờ không trao đổi, làm việc riêng mà tập trung theo dõi hoạt động của thầy và trò, thông qua các hoạt động, hệ thống câu hỏi, câu trả lời và cách đánh giá, nhận xét học sinh của người dạy và của học sinh với học sinh.

Để có cơ sở đánh giá, đóng góp, xây dựng cho đồng nghiệp, để học tập ở đồng nghiệp, người dạy cũng chú ý lắng nghe bày tỏ quan điểm phân tích sư phạm cùng nhau đi đến thống nhất cho một tiết dạy, có những kiến nghị phù hợp.

3. Giải pháp về tham gia kiểm tra- đánh giá kết quả việc học tập của học sinh.

Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là thể hiện thành tích của giáo viên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ và sự chỉ đạo cuả nhà trường. Do đó đánh giá với tinh thần nghiêm túc, thái độ khách quan, chống khuynh hướng nhận xét, đánh giá một cách hình thức, thiếu tinh thần trách nhiệm thì sẽ không khắc phục được những hạn chế mắc phải trong học sinh dẫn tới không chỉ hạn chế trong chất lượng giáo dục mà dẫn tới tiêu cực trong giáo dục, đánh giá không đúng, thiếu trung thực sẽ dẫn tới tình trạng nguy hiểm như học sinh ngồi nhầm lớp, thì ảnh hưởng đến uy tính của ngành giáo dục,… Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề này, giáo viên có những biện pháp như sau:

– Triển khai, phổ biến các văn bản quy định về kiểm tra đánh giá và ghi điểm; lập kế hoạch kiểm tra đánh giá thường xuyên, đánh giá theo thời điểm và phổ biến các quy định về nền nếp kiểm tra sâu rộng trong tập thể của nhà trường.

– Giáo viên tiến hành nghiên cứu những quy định kiểm tra – đánh giá nhận xét học sinh, lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên và theo từng thời điểm. Nội dung kiểm tra học sinh theo thời điểm được đưa ra tập thể tổ trao đổi cùng thống nhất nội dung ôn tập và ra đề kiểm tra. Ngoài đánh giá về hoạt động giáo dục, sự rèn luyện năng lực, phẩm chất của học sinh còn đánh giá về các phong trào như Vở sạch chữ đẹp,… Tổ chức thực hiện tốt theo quy định tại Thông tư số 30/2014/TT-GDĐT ngày 28/ 8/ 2014 và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22/ 9/ 2016 của Bộ GD-ĐT về Quy định đánh giá học sinh tiểu học , căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để đánh giá, tiến hành đánh giá đúng thực lực của học sinh ở từng môn học.

4. Giải pháp thực hiện hoạt động học tập của học sinh.

a. Xây dựng nề nếp, kỉ cương trong hoạt động học tập của học sinh:

Trong nhà trường, việc xây dựng nền nếp, kỉ cương có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó không chỉ là điều kiện để thực hiện tốt việc dạy và học trên lớp mà còn giáo dục học sinh ý thức, chấp hành tổ chức kỉ luật góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách ở học sinh. Do đó cần:

– Xây dựng nội quy học sinh, triển khai sâu rộng trong giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh ngay đầu năm học. Đặc biệt người làm thầy phải chú ý lắng nghe ý kiến của người học để nghiên cứu và có biện pháp phát huy tài năng của học sinh và kịp thời uốn nắn giúp học sinh rèn luyện phát triển đúng đắn hơn.

– Giáo viên tìm hiểu tâm lí của học sinh, tìm hiểu về khả năng và nhu cầu của từng em để có biện pháp giáo dục đạo đức, có biện pháp giúp đỡ sự rèn luyện của họ sinh. Tổ chức thi đua theo tổ, cá nhân học sinh về học tập, về lao động vệ sinh, về thực hiện nền nếp, thực hiện phong trào giúp bạn vượt khó,… tổ chức bình chọn học sinh gương mẫu, tổ tiên tiến,… vào cuối tuần theo dõi thường xuyên và liên tục uốn nắn các hành vi của học sinh.

– Phối hợp với Đoàn thanh niên – Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, phát động phong trào thi đua, động viên, khuyến khích học sinh chấp hành tốt nội quy, thường xuyên đánh giá xếp loại thi đua hàng tuần để kịp thời tuyên dương tập thể cá nhân có thành tích tốt, giúp cá nhân học sinh kịp thời điều chỉnh việc làm không phù hợp, khắc phục hạn chế của bản thân dần dần hoàn thiệ nhân cách ở học sinh.

b. Về giáo dục động cơ học tập của học sinh:

Hoạt động học tập là hoạt động cơ bản của học sinh, hoạt động này có hiệu quả cao hay không thỉ còn tùy thuộc vào tinh thần, thái độ học tập của các em. Vì vậy là người làm nhiệm vụ trồng người cần phải có biện pháp giáo dục cho học sinh tính tự giác trong học tập của học sinh, thông qua các tiết dạy giáo viên thường xuyên động viên khích lệ sự vươn lên trong mỗi học sinh, giáo dục và ươm mầm ước mơ, khơi dậy hoài bão ở mỗi em.

Tổ chức các hội thi, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện tài năng của mình, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện niềm đam mê.

Giáo dục học sinh thông qua các tiết sinh hoạt đưới cờ, các buổi sinh hoạt Đội, sinh hoạt Sao, nhân dịp lễ hội, các giờ học ngoại khóa,…

Giáo dục trong tiết sinh hoạt cuối tuần, trong tiết dạy, qua bài học, qua việc làm tốt của bạn, qua kết quả học tập của bạn, của bản thân học sinh,…

Thông qua quá trình thực hiên tiết dạy của giáo trên lớp nên tạo ra cơ hội cho học sinh phát biểu, học sinh tích cực xây dựng bài, giáo dục cho học sinh hiểu học tập vừa là quyền được học lại vừa là nhiệm vụ của các em. Tạo ra nhu cầu hứng thú về sự hiểu biết dần dần hình thành nhu cầu học tập với tinh thần tự giác, thái độ đúng đắn.

c. Về tổ chức phối hợp các hoạt động học tập chính khóa và ngoại khóa:

Do học sinh ở xa trường điều kiện đi lại khó khăn, trường chưa đủ cơ số phòng học, học sinh chỉ đến trường 07 buổi/tuần. Các em chỉ được tiếp thu kiến thức và vận dụng thực hành trong một thời gian nhất định, buổi còn lại các em chỉ tự học và luyện tập ở nhà. Thế nhưng có mấy em tự giác hoàn chỉnh thêm cho việc rèn luyện của bản thân vào những buổi học ở nhà. Nhằm để giúp học sinh hoàn thiện hơn thì cần có sự phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện hội cha mẹ học sinh, của chính quyền địa phương chung tay tuyên truyền, vận động để cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt cho con mình học tập ở trường cũng như học tập ở nhà: nên tạo cho các em góc học tập tại nhà, có thời gian biểu, thời khóa biểu học hợp lí, thường xuyên nhắc nhở, động viên con học tập, kiểm tra việc học tập của con một cách thường xuyên, liên tục,…

Cùng với giáo viên chủ nhiệm giáo dục con mình phát triển toàn diện, giáo dục đạo đức, giáo dục tính trung thực trong mõi lĩnh vực, biết đọc sách, tự làm bài tập ở vở bài tập hoặc bài tập nâng cao…

d. Về việc bồi dưỡng học sinh và phụ đạo học sinh:

Căn cứ hồ sơ tuyển sinh, biên bản bàn giao chất lượng lớp dưới lên lớp trên và kết quả khảo sát đầu năm, tổ chuyên môn, giáo viên chịu trách nhiệm phái có kế hoạch, biện pháp bồi dưỡng học sinh và phụ đạo học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phân loại học sinh, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh và phân nhóm. Để có biện pháp giảng dạy và giáo dục phù hợp, nâng dần chất lượng giáo dục bằng nhiều hình thức:

Xây dượng kế hoạch dạy học phù hợp, cải tiến phương pháp dạy học theo đối tượng học sinh, quan tâm và kịp thời giúp đỡ học sinh cón hạn chế bằng cách giao việc phù hợp, nâng dần, động viên, tạo cơ hội cho học sinh hòa nhập với tập thể, cũng như quan tâm học sinh còn hạn chế, công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu cũng là một trong những công tác mũi nhọn của nhà trường. Giáo viên không nên xem thường mà không chuẩn bị riêng cho những học sinh này bài tập khó thì có nguy cơ gây ra sự nhàm chán đối với các em. Vì với các bài tập ở sách giáo khoa các em đều làm được. Thời gian còn lại các em chỉ ngồi chờ nếu cứ lập đi lập lại tình trạng này thì sẽ gây ức chế hưng phấn học tập của học sinh, kiềm hãm sự phát triển tư duy của trẻ. Chính vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải hết sức chú ý và giao việc phù hợp mới phát triển tài năng của tuổi thơ.

5. Giải pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội:

Là mối quan hệ không thể thiếu trong nhà trường phổ thông đặt biệt là trong trường tiểu học. Nhà trường phối hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức và cá nhân nhằm thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Nhằm huy động mọi lực lượng của cộng đồng tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh. Là cánh tay đắc lực hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần cho tập thể cán bộ giáo viên, tạo điều kiện trang bị đồ dùng dạy học, là nguồn động viên lớn đối với ý thức học tập và rèn luyện của học sinh.

PHẦN BA: KẾT LUẬN

Qua quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, tìm hiểu về thực trạng của lớp, của trường và đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của trường tiểu học 1 xã Hiệp Tùng đã được áp dụng trong năm học vừa qua và học kỳ một năm học 2017 – 2018 với những kết quả khả quan cụ thể như:

1. Giải pháp xây dựng đội ngũ trong tập thể sư phạm: 100% giáo viên, học sinh không vi phạm quy chế, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dạy và học. Kết quả đạt được tập thể vững mạnh.

2. Giải pháp chỉ đạo về việc kiểm tra – đánh giá kết quả việc học tập của HS:

* Chất lượng giáo dục hai môn: Toán và Tiếng Việt:

Năm học

Toán

Tiếng Việt

HTT (%)

HT (%)

CHT (%)

HTT (%)

HT (%)

CHT (%)

* Chất lượng giáo dục (Năng lực và phẩm chất)

Năm học

T (%)

Đ (%)

CCG(%)

T (%)

Đ(%)

CCG(%)

3. Giải pháp chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh: Kết quả đạt được năm học ………. có 06 học sinh giỏi cấp trường môn Anh văn, 05 học sinh đạt giải hội thi Violympic Toán. Năm học có: 09 học sinh được công nhận Viết chữ đẹp cấp trường và 24/32 học sinh được công nhận vở sạch chữ đẹp; có 26 em được công nhận Cháu ngoan Bác Hồ, đạt 100% học sinh được lên lớp thẳng.

Trên đây là nội dung và kết quả đạt được qua quá trình áp dụng chủ đề nghiên cứu “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở trường tiểu học”. Rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô.

2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học

1. Biện pháp xây dựng đội ngũ trong tập thể sư phạm.

Trường học – tổ chức cơ sở của hệ thống giáo dục – nơi tập trung những người thực hiện nhiệm vụ chung: dạy và học, giáo dục và đào tạo những nhân cách theo mục tiêu đề ra. Mà giáo viên là lực lượng nồng cốt tham gia và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển về trí tuệ, hiểu biết và nhân cách con người; là người không chỉ thực hiện nhiệm vụ của bản thân, với gia đình, với học sinh, phụ huynh học sinh mà còn thể hiện nhiệm vụ với xã hội, với vân mệnh và tương lai của đất nước. Chính vì vậy công tác xây dựng đội ngũ trong nhà trường là vấn đề quan trọng. Vì có một tập thể đoàn kết thì mới có một tập thể vững mạnh, mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học. Mỗi cá nhân là một thành viên tích cực nêu cao quan điểm, mạnh dạn bày tỏ ý kiến đóng góp, xây dựng cho đồng chí, đồng đội, cùng phát triển về công tác chuyên môn (về thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, về biện pháp giáo dục học sinh,…), quan tâm giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn cùng nhau hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, có một tập thể đoàn kết mới hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của năm học. Có sự đoàn kết, thống nhất như vậy sẽ góp phàn nâng cao nhận thức về chuyên môn, nâng cao khả năng giảng dạy của giáo viên, quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường.

Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo viên, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, khuyến khích giáo viên đọc sách báo, tham khảo tài liệu về chính trị, văn hóa, pháp luật…

Phân công chuyên môn phù hợp với năng lực, sở trường của từng giáo viên, tạo mọi điều kiên thuận lợi cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công. Đi kèm theo công tác phân công chính là công tác kiểm tra đánh giá kết quả lao động của cá nhân, tập thể được phân công, để đánh giá mức độ hoàn thành công việc như thế nào. Từ đó có bài học kinh nghiệm cho bản thân đồng thời kịp thời phát hiện năng lực của giáo viên và có kế hoạch bồi dương phát huy hoặc khuyến khích giáo viên tiến bộ.

Thường xuyên mở các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, các buổi thao giảng, phối hợp mở các buổi hội giảng trao đổi về phương pháp giảng dạy, biện pháp giáo dục học sinh.

Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập, giao lưu trao đổi kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.

Thực hiện tốt công tác dân chủ trong nhà trường. có biện pháp, chế độ tùy theo kết quả, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được phân công, tham mưu tốt với ban ngành đoàn thể đảm bảo quyền lợi của anh chị em trong lao động.

2. Biện pháp về hoạt động giảng dạy của giáo viên.

2.1. Biện pháp xây dựng nề nếp, kỷ cương trong hoạt động giảng dạy của giáo viên

Xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường. Quy chế chuyên môn trong nhà trường là một trong những công cụ để đánh giá quá trình lao động của người giáo viên. Việc thực hiện tốt quy chế chuyên môn trong nhà trường của giáo viên là yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng và hiệu quả của công tác giảng dạy.

– Trên cơ sở: Quyết định 14 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tao Quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học ngày 04 tháng 05 năm 2007 của Quyết định 16 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tao về việc Vi phạm đạo đức nhà giáo ngày 16 tháng 04 năm 2008; căn cứ điều lệ trường tiểu học; căn cứ văn bản chỉ đao của lãnh đạo Phòng GD&ĐT và căn cứ tình hình thực tế của đơn vị. Hiệu trưởng xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường như quy định về đạo đức, tác phong sư phạm, tác phong của nhà giáo, quy định giờ ra vào lớp, quy định về hồ sơ sổ sách, lịch trình duyệt các kế hoạch. Giáo viên soạn giảng đủ môn, đủ tiết, số tiết dự giờ trên tuần ( rút kinh nghiệm,dự giờ để đánh giá), số lần tham gia sinh hoạt chuyên môn.duy trì sĩ số lớp…

– Phát động phong trào Thi đua-Dạy tốt-Học tốt, tiến hành bàn giao số lượng, chất lượng (cụ thể từng đối tượng học sinh về lực học, về sở trường, về cá tính của học sinh…) của lớp dưới lên lớp trên để giáo viên mới có cơ sở xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm của năm học, đăng kí chỉ tiêu phấn đấu, xây dựng kế hoạch giảng dạy.

– Phối hợp với Ban chấp hành công đoàn phát động phong trào “Kỷ cương – Tình thương – Trách nhiệm”. qua đó vận động giáo viên chấp hành nghiêm túc quy chế chuyên môn của nhà trường.

2.2. Biện pháp chỉ đạo việc thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy của cấp quản lí giáo dục:

Việc tố chức thực hiện chương trình và xây dựng kế hoạch giảng dạy của giáo viên là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục trong nhà trường nên Hiệu trưởng phải dựa trên cơ sở như: căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, các chỉ thị của ngành, của địa phương, căn cứ vào đặc điểm tình hình của đơn vị để xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình sao cho vừa đảm bảo chất lượng, vừa đảm bảo hoàn thành chương trình theo tinh thần chỉ đạo ngành.

Dự kiến những vấn đề có thể nảy sinh, biện pháp khắc phục, biên chế nội dung chương trình cho cả năm học và cho tùng thời điểm, lập thời khóa biểu cho các khối lớp, phân phối chương trình.

Tập trung nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo về chuyên môn, nghiên cứu về nội dung chương trình sách giáo khoa, căn cứ đặc điểm tâm lí của trẻ. Hướng dẫn tổ chuyên môn, giáo viên phối hợp với kế hoạch của nhà trường xây dựng kế hoạch giảng dạy, kế hoạch hoạt động phù hợp với đối tượng học sinh. Thực hiện chương trình một cách vừa và đủ đảm bảo tham gia các hội thi mà cấp trên tổ chức, như thi: Violumpic Tiếng Anh, giải toán trên Internet… Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo điều lệ trường tiểu học, nội dung sinh hoạt đa dạng phong phú: trao đổi về phương pháp dạy học, trao đổi về kết quả nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa, trao đổi về phương pháp xác định mục tiêu của bài học – xác định mảng kiến thức trọng tâm của một bài, một môn, trao đổi về biện pháp giáo dục học sinh hướng dẫn học sinh trong học tập cũng như trong rèn luyện.

2.3. Biện pháp chỉ đạo thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên và việc lựa chọn đồ dùng dạy học của giáo viên:

Thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên là việc làm quan trọng, thực hiện quy chế chuyên môn trong trường tiểu học. Là khâu mà bất kì giáo viên trực tiếp giảng dạy nào cũng phải có, vì trong quá trình thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp giúp giáo viên có sự chuẩn bị, sự nghiên cứu về nội dung, tuy nó chưa phải là dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy để có biện pháp xử lí kịp thời đúng đắn. Và thiết kế bài dạy được xem là công cụ để thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, thể hiện sự sáng tạo của giáo viên và cũng là một trong những việc làm góp phần quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường. Do đó cần tập trung chỉ đạo việc thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên cụ thể như sau:

-Triển khai các văn bản, các yêu cầu cơ bản về việc thiết kế bài dạy, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng đến tổ khối, giáo viên.

Kế hoạch bài giảng của giáo viên phải thể hiện:

– Mục tiêu đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng của bài học dành cho đối tượng học sinh trong lớp.

– Tăng cường trang bị về thiết bị, đồ dùng dạy học, khuyến khích gíao viên đẩy mạnh công nghệ thông tin vào giảng dạy. Khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học phải phù hợp với nội dung bài, đồng thời trong quá trình chuẩn bị phải thể hiện được đồ dùng phục vụ cho người dạy và đồ dùng phục vụ cho người học. Vì đồ dùng dạy học rất quan trọng trong việc dạy học ở tiều học giúp học sinh nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, đến thực tiễn. Ngoài đồ dùng trực quan sinh động mà giáo viên đã chuẩn bị thì còn hình ảnh trực quan sinh động hơn là người giáo viên: cần có ngoại hình cân đối, giọng nói nhẹ nhàng, ngọt ngào, cử chỉ mềm mại, điệu bộ duyên dáng, thái độ ân cần… sẽ thu hút sự chú ý học tập của học sinh cao hơn, tăng thêm sự hứng thú nhận thức của trẻ.

– Nội dung cơ bản của kế hoạch phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài, dự kiến thời gian của từng hoạt động; mỗi hoạt động đều thể hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên. Không ghi những vấn đề không cần thiết.

Nội dung giáo án ngắn gọn, xúc tích đảm bảo nội dung trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy (thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy – trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học, lớp học với đối tượng học sinh).

Hướng dẫn soạn những bài khó, tổ chức trao đổi, thống nhất chung các vấn đề liên quan đến giờ lên lớp, giúp đỡ giáo viên nhận lớp mới.

Quy định thời gian kí duyệt kế hoạch giảng dạy của giáo viên trước khi lên lớp thực hiện tiết dạy.

2.4. Biện pháp quản lí giờ lên lớp của giáo viên:

Giờ lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản và chủ yếu nhất của quá trình dạy học để thực hiện mục tiêu dạy học.

Trong nhà trường tiểu học hoạt động dạy và hoạt động học là hai hoạt động là hoạt động chính. Hiện nay quá trình dạy học chủ yếu đa số là diễn ra trong lớp học. Giờ lên lớp quyết định chất lượng dạy học cơ bản, trong đó giáo viên là người trực tiếp quyết định và chịu trách nhiệm. Do vậy, giờ lên lớp thể hiện rõ nhất trách nhiệm và khả năng của giáo viên. Vì vậy hiệu trưởng quản lí giờ lên lớp của giáo viên như:

– Xây dựng nề nếp giờ lên lớp của giáo viên, thực hiện kiểm soát giờ lên lớp của giáo viên bằng thời khóa biểu, vào phân phối chương trình. kiểm tra bài soạn, kiểm tra các loại hồ sơ sổ sách có liên quan đến giờ lên lớp, đảm bảo chế độ giờ lên lớp (23 tiết/tuần đối với GV chuyên, 20 tiết/tuần đối với GV chủ nhiệm lớp). Xử lí kịp thời trường hợp giáo viên bỏ lớp, giáo viên thực hiện không nghiêm túc chương trình.

– Tổ chức thực hiện tốt kỉ luật lao động trong nhà trường, khuyến khích giáo

viên thực hiện tốt giờ lên lớp.

– Thực hiện chương trình đảm bảo đúng quy chế chuyên môn, quy định của ngành. Duy trì và thực hiện tốt giờ lên lớp.

2.5. Biện pháp quản lí việc dự giờ của giáo viên:

Dự giờ là công việc đặc thù, cơ bản, là biện pháp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho mỗi cá nhân giáo viên một cách hiệu quả nhất.

Căn cứ vào điều lệ Trường tiểu học thì đối với giáo viên số tiết dự giờ ít nhất 1 tiết/tuần, đối với tổ chuyên môn ít nhất 2 tiết/tuần.

Để công tác dự giờ có hiệu quả, trước khi dự giờ giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài, xác định mục tiêu, xác định mảng kiến thức trọng tâm, lựa chọn phương pháp, đồ dùng dạy học, dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy.

Tiến hành dự giờ: khi dự giờ không trao đổi, làm việc riêng mà tập trung theo dõi hoạt động của thầy và trò, thông qua các hoạt động, hệ thống câu hỏi, câu trả lời và cách đánh giá học sinh của người dạy.

Để có cơ sở đánh giá, đóng góp, xây dựng cho đồng nghiệp, để học tập ở đồng nghiệp, người dạy cũng chú ý lắng nghe bày tỏ quan điểm phân tích sư phạm cùng nhau đi đến thống nhất cho một tiết dạy, có những kiến nghị phù hợp.

Căn cứ công văn số 10358/BGD&ĐT-GDTH ngày 28 tháng 09 năm 2007 Hướng dẫn việc sử dụng chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học trong quá trình đánh giá xếp loại. Quy định về cách đánh giá xếp loại tiết dạy gồm 4 lĩnh vực: Kiến thức, kĩ năng sư phạm, thái độ sư pham, hiệu quả. Bốn lĩnh vực có điểm tối đa là 20; xếp loại: Tốt, Khá, Trung bình và chưa đạt.

3. Biện pháp chỉ đạo về kiểm tra- đánh giá kết quả việc học tập của học sinh

Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là thể hiện thành tích của giáo viên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ và sự chỉ đạo cuả nhà trường. Do đó đánh giá với tinh thần nghiêm túc, thái độ khách quan, chống khuynh hướng nhận xét, đánh giá một cách hình thức, thiếu tinh thần trách nhiệm thì sẽ không khắc phục được những hạn chế mắc phải trong học sinh dẫn tới không chỉ hạn chế trong chất lượng giáo dục mà dẫn tới tiêu cực trong giáo dục, đánh giá không đúng, thiếu trung thực sẽ dẫn tới tình trạng nguy hiểm như học sinh ngồi nhằm lớp, thì ảnh hưởng đến uy tính của ngành giáo dục… Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề này, hiệu trưởng có những biện pháp chỉ đạo như sau:

– Triển khai, phổ biến các văn bản quy định về kiểm tra đánh giá và ghi điểm; lập kế hoạch kiểm tra đánh giá thường xuyên, đánh giá theo thời điểm và phổ biến các quy định về nề nếp kiểm tra sâu rộng trong tập thể sư phạm của nhà trường.

– Tổ chuyên môn tiến hành nghiên cứu những quy định kiểm tra – đánh giá nhận xét học sinh, lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên và theo từng thời điểm. Nội dung kiểm tra học sinh theo thời điểm được đưa ra tập thể tổ trao đổi cùng thống nhất nội dung ôn tập và ra đề kiểm tra. Ngoài đánh giá về năng lực, phẩm chất, sự rèn luyện của học sinh còn đánh giá về các phong trào như Vở sạch chữ đẹp, …Tổ chức thực hiện tốt theo quy định tại thông tư 32 của Bộ GD&ĐT quy định về đánh giá xếp loại học sinh, căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để đánh giá, tiến hành đánh giá đúng thực lực của học sinh ở từng môn học.

4. Biện pháp chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh

4.1. Xây dựng nề nếp, kỉ cương trong hoạt động học tập của học sinh:

Trong nhà trường, việc xây dựng nề nếp, kỉ cương có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó không chỉ là điều kiện để thực hiện tốt việc dạy và học trên lớp mà còn giáo dục học sinh ý thức, chấp hành tổ chức kỉ luật góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách ở học sinh. Do đó cần:

– Xây dựng nội quy học sinh, triển khai sâu rộng trong giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh ngay đầu năm học. Đặc biệt người làm thầy phải chú ý lắng nghe ý kiến của người học để nghiên cứu và có biện pháp phát huy tài năng của học sinh và kịp thời uốn nắn giúp học sinh rèn phát triển đúng đắn hơn.

– Giáo viên tìm hiểu tâm lí của học sinh, tìm hiểu về khả năng và nhu cầu của từng em để có biện pháp giáo dục đạo đức, có biện pháp giúp đỡ sự rèn luyện của họ sinh. Tổ chức thi đua theo tổ, cá nhân học sinh về học tập, về lao động vệ sinh, về thực hiện nề nếp, thực hiện phong trào giúp bạn vượt khó,… tổ chức bình chọn học sinh gương mẫu, tổ tiên tiến… vào cuối tuần theo dõi thường xuyên và liên tục uốn nắn các hành vi của học sinh.

– Phối hợp với Đoàn thanh niên – Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, phát động phong trào thi đua, động viên, khuyến khích học sinh chấp hành tốt nội quy, thường xuyên đánh giá xếp loại thi đua hàng tuần để kịp thời tuyên dương tập thể cá nhân có thành tích tốt, giúp cá nhân học sinh kịp thời điều chỉnh việc làm không phù hợp, khắc phục hạn chế của bản thân dần dần hoàn thiệ nhân cách ở học sinh.

4.2. Biện pháp chỉ đạo nhằm giáo dục động cơ học tập của học sinh:

Hoạt động học tập là hoạt động cơ bản của học sinh, hoạt động này có hiệu quả cao hay không thỉ còn tùy thuộc vào tinh thần, thái độ học tập của các em. Vì vậy là người làm nhiệm vụ trồng người cần phải có biện pháp giáo dục cho học sinh tính tự giác trong học tập của học sinh, thông qua các tiết dạy giáo viên thường xuyên động viên khích lệ sự vươn lên trong học sinh, giáo dục và ươm mầm ước mơ, khơi dậy hoài bảo ở mỗi em.

Tổ chức các hội thi, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện tài năng của mình, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện niềm đam mê.

Giáo dục học sinh thông qua các tiết sinh hoạt đưới cờ, các buổi sinh hoạt Đội, sinh hoạt Sao, nhân dịp lễ hội.

Giáo dục trong tiết sinh hoạt cuối tuần, trong tiết dạy, qua bài học, qua việc làm tốt của bạn, qua kết qua học tập của bạn, của bản thân học sinh,…

Thông qua quá trình thực hiên tiết dạy của giáo trên lớp nên tạo ra cơ hội cho học sinh phát biểu, học sinh tích cực xây dựng bài, giáo dục cho học sinh hiểu học tập vừa là quyền được học lại vừa là nhiệm vụ của các em. Tạo ra nhu cầu hứng thú về sự hiểu biết dần dần hình thành nhu cầu học tập với tinh thần tự giác, thái độ đúng đắn.

4.3. Biện pháp chỉ đạo tổ chức phối hợp các hoạt động học tập chính khóa và ngoại khóa:

Để giúp học sinh hoàn thiện hơn thì cần có sự phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện hội cha mẹ học sinh, của chính quyền địa phương chung tay tuyên truyền, vận động để cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt cho con mình học tập ở trường cũng như học tập ở nhà: nên tạo cho các em góc học tập tại nhà, có lịch học, thời khóa biểu học hợp lí, thường xuyên nhắc nhở, động viên con học tập, kiểm tra việc học tập của con một cách thường xuyên…

Cùng với giáo viên chủ nhiệm giáo dục con mình phát triển toàn diện, giáo dục đạo đức, giáo dục tính trung thực trong mõi lĩnh vực, biết đọc sách, tự làm bài tập ở vở bài tập hoặc bài tập nâng cao…

4.4. Biện pháp chỉ đạo về việc bồi dưỡng HS năng khiếu và phụ đạo học sinh yếu:

Căn cứ hồ sơ tuyển sinh, biên bản bàn giao chất lượng lớp dưới lên lớp trên và kết quả khảo sát đầu năm, Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn, giáo viên chịu trách nhiệm phái có kế hoạch và biện pháp bồi dưỡng học sinh năng khiếu và phụ đạo học sinh yếu. Giáo viên chủ nhiệm phân loại học sinh, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu và phân nhóm. Để có biện pháp giảng dạy và giáo dục phù hợp, nâng dần chất lượng giáo dục bằng nhiều hình thức:

Xây dượng kế hoạch dạy học phù hợp, cải tiến phương pháp dạy học theo đối tượng học sinh, quan tâm và kịp thời giúp đỡ học sinh yếu bằng cách giao việc phù hợp, nâng dần, động viên, tạo cơ hội cho học sinh hòa nhập vói tập thể, cũng như quan tâm học sinh yếu công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là một trong những công tác mũi nhọn của nhà trường. Giáo viên không nên xem thường mà không chuẩn bị riêng cho hững học sinh này bài tập khó thì có nguy cơ gây ra sự nhàm chán đối với các em. Vì với các bài tập ở sách giáo khoa các em đều làm được. Thời gian còn lại các em chỉ ngồi chờ nếu cứ lập đi lập lại tình trạng này thì sẽ gây ức chế hưng phấn học tập của học sinh, kìm hãm sự phát triển của tư duy của trẻ . Chính vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải hết sức chú ý và giao việc phù hợp mới phát triển tài năng của tuổi thơ.

5. Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội:

Là mối quan hệ không thể thiếu trong nhà trường phổ thông đặt biệt là trong trường tiểu học. nhà trường phối hợp ban đại diện cha mẹ học sinh các tổ chức và cá nhân nhằm thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Nhằm huy động mọi lực lượng của cộng đồng tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh. Là cánh tay đắc lực hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần cho tập thể cán bộ giáo viên, tạo điều kiện trang bị đồ dùng dạy học, là nguồn động viên lớn đối với ý thức học tập và rèn luyện của học sinh.

3. Những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học mà bản thân đang thực hiện tại lớp

Dưới đây là một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.

1. Biện pháp 1: Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp

– Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm cũ, qua học sinh trong lớp hoặc qua phụ huynh.

– Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể:

+ Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.

+ Học sinh khuyết tật.

+ Học sinh các biệt về đạo đức.

+ Học sinh yếu.

+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.

* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

* Đối với những học sinh khuyết tật.

* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:

– Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ có những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…

– Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.

* Đối với học sinh học yếu:

– Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.

– Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:

+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian ngoài giờ lên lớp .

+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.

+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.

+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém tiến bộ.

+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.

+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước bạn bè. Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.

2. Biện pháp 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra.

Như chúng ta đã biết xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi là việc rất quan trọng người giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện.Hơn nữa, để đội ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích.

– Trước hết , những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè….

– Sau đó hằng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm: lớp trưởng,2 lớp phó , 4 tổ trưởng, 4 tổ phó. . sẽ tiến hành công việc của mình như sau:

*Đầu giờ (trước giờ truy bài):

Tổ trưởng, tổ phó kiểm tra những việc sau: soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng dậy học,có ý thức xem bài trước, đi học đúng giò, không mang dép lê….rồi tổ trưởng chấm điểm thi đua theo qui đinh như sau: (vi phạm 1 nội dung trừ: 2 điểm xấu )

*Trong giờ học:

Tổ trưởng, tổ phó theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng bài, đạt điểm cao trong học tập thì cộng điểm thưởng như sau: Đạt điểm 10 một môn thì cộng 5 điểm tốt, phát biểu xây dựng bài cộng 1đ/1lần. nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/ 1lần.

*Giờ ăn ngủ bán trú:

Tổ trưởng, Tổ phó theo dõi các tổ viên các nề nếp: ăn, ngủ đúng thời gian.. nếu vi phạm trừ 2đ/ 1 lần) Biện pháp 3: Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh

* Đối vói Ban đại diện CMHS lớp: Từ đầu năm học. Tôi đã định hướng bầu chọn Ban đại diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau:

– Phụ huynh có đời sống kinh tế ổn đinh.

– Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu.

– Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục – Có con em học khá giỏi.

* Ban phân hội lớp gồm 3 thành viên: Trưởng ban, phó ban, thư ký

* Nhiệm vụ ban phân hội lớp:

– Kết hợp với GVCN lớp theo dõi, động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học sinh. Đặc biệt quan tâm đến các phong trào lớp

– Nắm rõ được hoàn cảnh gia đình, chỗ ở của từng học sinh để kịp thời thăm hỏi. – Có kế hoạch khen thưởng kịp thời học sinh lớp tiến bộ theo từng tuần, tháng, theo các đợt kiểm tra định kỳ của nhà trường.

* Đối với từng phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau:

– Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình.

– Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.

– Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày.

– Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.

– Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa chơi. – Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà.

Biện pháp 4: Đầu tư các phong trào mũi nhọn nhà trường tổ chức Từ đầu năm học GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể trong trường phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong các phong trào chung của nhà trường như: Vở sạch chữ đẹp, Vẽ tranh, Kể chuyện, cờ vua,….

– Điều quan trọng là GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ…

– Phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học sinh có năng khiếu nói trên.

– Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua những hội thi,Tổ chức các sân chơi ở lớp như: Rung chuông vàng, đối mặt trong các tiết HĐNGLL để phát huy và chọn lọc nhữn HS có năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức. Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng

– Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:

– Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:

+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.

+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.

+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.

– Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua bảng điểm . sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.

– Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được nhận thưởng lại ( nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)

– Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng.Trên đây là một số biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập đã được áp dụng ở rất nhiều lớp học và đạt được kết quả tốt.

4. Biện pháp chỉ đạo quá trình dạy học ở trường Tiểu học

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong thời kì xã hội hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm và chú trọng đến giáo dục. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học là bậc nền tảng, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng là bước đầu hình thành nhân cách con người cũng là bậc học nền tảng nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học bậc trung học cơ sở. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu biết nhất định về nội dung, chương trình sách giáo khoa, có khả năng hiểu được về tâm sinh lí của trẻ, về nhu cầu và khả năng của trẻ. Đồng thời người dạy có khả năng sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Là một cán bộ quản lý, tôi nhận thấy bản thân giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong nhà trường – nhiệm vụ phụ trách công tác chuyên môn của nhà trường. Làm thế nào để đẩy mạnh sự phát triển giáo dục nói chung và làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói riêng, đặc biệt là chất lượng học sinh đại trà. Năm học ………….. nhiệm vụ chung của ngành là: Tiếp tục chỉ đạo việc quản lí, tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học;… Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh:

Căn cứ chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình lồng ghép giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh.

Coi trọng sự tiến bộ của học sinh trong học tập và rèn luyện, động viên khuyến khích không gây áp lực cho học sinh khi đánh giá. Tạo điều kiện và cơ hội cho tất cả học sinh hoàn thành chương trình kiến thức, kĩ năng môn học và có mảng kiến thức dành cho đối tượng học sinh năng khiếu.

Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tiểu học căn cứ vào những nhận thức mới của học sinh về đạo đức, học tập và rèn luyện ở các em; căn cứ vào năng lực tổ chức, thiết kế và những hoạt động trong quá trình dạy học ở giáo viên vẫn còn không ít giáo viên bị ảnh hưởng nặng nề bởi phương pháp dạy học truyền thống mà họ không hiểu rằng việc đổi mới phương pháp dạy học tức là dùng phương pháp dạy học mới một cách hợp lí để tạo cho người học lòng say mê học tập, ham hiểu biết, óc tò mò để có khả năng và phương pháp học tập, tạo ra sự phát triển mới, nâng cao hiệu quả giáo dục phù hợp với bối cảnh của xã hội mà vẫn giữ được sự ổn định trong hoạt động dạy học. Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cái hiện hành mà phải thừa kế sự phát huy những thành tựu đã đạt được đồng thời tạo ra được sự phối hợp chặt chẽ giữa phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp hiện đại.

Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn của đơn vị. Tôi mạnh dạn chọn và viết sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học ……………” nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng dạy – học và đẩy mạnh công tác mũi nhọn của nhà trường.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Thực trạng công tác dạy và học trong trường Tiểu học …………. tỉnh ……………..

1.1. Ưu điểm.

Mặc dù cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều hạn chế nhưng tập thể cán bộ, giáo viên trường tiểu học ………………. đã không ngừng phấn đấu để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ và đặc biệt là chú trọng nhất về nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Có 100% cán bộ, giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ do phòng GD&ĐT, trường tổ chức nên đã nắm được việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học; dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học; đổi mới cách đánh giá học sinh, coi trọng sự tiến bộ của học sinh.

Ngoài nắm vững chuyên môn giáo viên còn nghiên cứu, tìm hiểu về đối tượng học sinh, chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện nội dung, chương trình của từng môn học, mạnh dạn đăng kí chỉ tiêu phấn đấu trên đối tượng học sinh của mình.

Việc đổi mới phương pháp dạy học chính thức khởi xướng năm ……………., đến nay, đa số giáo viên đã cải tiến phương pháp dạy học áp dụng hiệu quả thiết bị dạy học và đồ dùng tự làm, tích cực học tập, trao đổi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh đã được tất cả giáo viên quan tâm và mạnh dạn áp dụng. Phương pháp dạy học nêu vấn đề, dạy theo nhóm, dạy ngoài hiện trường… lối dạy ấy đã thu hút sự chú ý, óc tò mò, hứng thú học tập của học sinh hơn, tạo điều kiện cho các em động não, phát hiện ra kiến thức và chiếm lĩnh kiến thức, tạo niềm tin học tập cho các em. Thực tế qua đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại kết quả khả quan về chất lượng giáo dục trong nhà trường.

Tuy cơ sở vật chất nhà trường còn nhiều hạn chế nhưng giáo viên đã tận dụng, tạo môi trường học tập, môi trường vui chơi an toàn cho học sinh. Học sinh có đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập, hăng hái tham gia xây dựng bài học.

Ngày nay, công tác xã hội hóa giáo dục có sự chuyển biến tích cực. Đa số cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học của con em mình. Đồng thời đã đóng góp không nhỏ về vật chất để mua sắm trang thiết bị dạy học trong nhà trường, nâng cấp cơ sở vật chất, tạo điều kiện tốt cho việc vui chơi và học tập của học sinh.

1.2. Một số hạn chế và nguyên nhân hạn chế.

Mặc dù tất cả cán bộ quản lý, giáo viên của trường được tham gia tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về dạy học theo phương pháp dạy học tích cực một cách kĩ lưỡng nhưng khi vào thực tế giảng dạy vẫn còn giáo viên lúng túng trong khâu đổi mới phương pháp dạy học, dưới sự ảnh hưởng của phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chỉ lo tập trung vào phần việc của mình, cứ lo sợ dạy không hết bài, học sinh không biết … cứ như thế, vào tiết học giáo viên thao thao giảng bài, truyền đạt cho học sinh những nội dung cần ghi nhớ, yêu cầu các em về học thuộc lòng. Có những giáo viên nhận thức được đổi mới phương pháp dạy học là dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dưới sự hướng dẫn, nêu vấn đề của người dạy, người học động não, tìm cách giải quyết vấn đề để chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng kiến thức mới vào thực tiễn.

Gắn liền với đổi mới phương pháp dạy học là việc sử dụng thiết bị dạy học, đồ dùng dạy học. Thế nhưng vẫn còn giáo viên còn ít sử dụng, chưa khai thác triệt để thiết bị, đồ dùng vào các tiết dạy mà còn dạy chay hoặc sử dụng khi có người dự giờ. Khi sử dụng, có giáo viên sử dụng chưa linh hoạt hoặc khai thác một cách qua loa, máy móc làm cho tiết học trở nên rời rạc, nhàm chán không phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; không có thiết bị để ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.

Trong quá trình xây dựng kế hoạch bài dạy, giáo viên hầu như chưa thoát li được sách giáo viên, sách tham khảo, mà còn có những giáo viên coi sách giáo viên như một pháp lệnh, không được xê dịch hay sửa đổi. Chép nguyên mục tiêu và các hoạt động trong sách mà không cần biết bài dạy đó có phù hợp với học sinh của mình không mà không bỏ thời gian ra nghiên cứu nội dung bài học sách giáo khoa, liên hệ từng đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch dạy học cho từng môn học, hay thiết kế bài dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp. Một số giáo viên không nghiên cứu nội dung sách giáo khoa để xác định mảng kiến thức trọng tâm của bài, liên hệ sự tiếp thu của học sinh rồi lựa chọn phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực, sự vận động suy nghĩ của từng đối tượng học sinh, tránh nhàm chán ở học sinh vì trong lớp học có tới ba khả năng tiếp thu và ba khả năng nhận thức cụ thể như: học sinh năng khiếu; học sinh hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học; học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học. Ngoài ra, trong quá trình lập kế hoạch bài dạy do không nghiên cứu kĩ lưỡng nội dung bài nên việc chuẩn bị trang thiết bị, đồ dùng dạy học không có hoặc không phù hợp, thậm chí có xác định ở phần chuẩn bị trong giáo án nhưng qua một tiết dạy không thấy giáo viên sử dụng ở hoạt động nào? (lúc nào?).

Bên cạnh những việc tồn tại ở khâu soạn giảng thì cũng không thể không đề cập đến vấn đề kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh. Một số giáo viên dù nắm được, hiểu được hướng dẫn chỉ đạo của Thông tư 30/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Quy định đánh giá học sinh Tiểu học, Quyết định số …………………… ngày ……………… của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông – cấp Tiểu học, trong đó có Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học thế nhưng trong quá trình đánh giá còn giáo viên không căn cứ vào những tiêu chí hướng dẫn của văn bản để đánh giá, mà đánh giá dựa vào cảm tính, quan sát chung chung, thiếu căn cứ, thiếu tính chính xác. Thậm chí việc kiểm tra, đánh giá còn dựa trên tình cảm, cả nể mà đánh giá không đúng thực lực của học sinh. Mặc dù, là năm học “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, củng cố kết quả các cuộc vận động chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục”. Vậy mà vẫn còn giáo viên để xảy ra hiện tượng cảm tính trong đánh giá xếp loại nhất là trong xét khen thưởng ở cuối năm. Đến đầu năm học mới có rất nhiều học sinh bị hụt hẫng về kiến thức nên rất khó cho việc giảng dạy của giáo viên, ngoài ra còn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục.

Mặt khác, giáo viên chưa nghiên cứu sâu về tâm lý từng học sinh để có biện pháp giảng dạy và giáo dục tốt hơn.

Đa số học sinh còn phụ thuộc vào khuôn mẫu, bắc chước, chưa có ý thức tự giác học tập, lại được cha mẹ học sinh đồng thuận mua sắm cho sách giải, sách tham khảo, văn mẫu,… để các em sao chép lại.

Do còn không ít cha mẹ học sinh thiếu trách nhiệm, thiếu sự phối hợp trong giáo dục học sinh, gây sức ép không nhỏ đối với giáo viên.

2. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của trường Tiểu học ………..

Biện pháp 1: Biện pháp xây dựng đội ngũ trong tập thể nhà trường.

Trường học – tổ chức cơ sở của hệ thống giáo dục – nơi tập trung những người thực hiện nhiệm vụ chung: dạy và học, giáo dục và đào tạo những nhân cách theo mục tiêu đề ra. Giáo viên là lực lượng nòng cốt tham gia và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển về trí tuệ, hiểu biết và nhân cách con người; là người không chỉ thực hiện nhiệm vụ của bản thân, với gia đình, với học sinh, cha mẹ học sinh mà còn thể hiện nhiệm vụ với xã hội, với vận mệnh và tương lai của đất nước. Chính vì vậy, công tác xây dựng đội ngũ trong nhà trường là vấn đề quan trọng vì có một tập thể đoàn kết thì mới có một tập thể vững mạnh. Mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học. Mỗi cá nhân là một thành viên tích cực nêu cao quan điểm, mạnh dạn bày tỏ ý kiến đóng góp, xây dựng cho đồng nghiệp cùng phát triển về công tác chuyên môn (về thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, về biện pháp giáo dục học sinh,…), quan tâm giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn cùng nhau hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, có một tập thể đoàn kết mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của năm học. Có sự đoàn kết, thống nhất như vậy sẽ góp phần nâng cao nhận thức về chuyên môn, nâng cao khả năng giảng dạy của giáo viên, quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường.

Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo viên, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, khuyến khích giáo viên đọc sách báo, tham khảo tài liệu về chính trị, văn hóa, pháp luật…

Phân công chuyên môn phù hợp với năng lực, sở trường của từng giáo viên, tạo mọi điều kiên thuận lợi cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công. Đi kèm theo công tác phân công chính là công tác kiểm tra, đánh giá kết quả lao động của cá nhân, tập thể được phân công để đánh giá mức độ hoàn thành công việc như thế nào? Từ đó có bài học kinh nghiệm cho bản thân đồng thời kịp thời phát hiện năng lực của giáo viên và có kế hoạch bồi dương phát huy hoặc khuyến khích giáo viên tiến bộ.

Thường xuyên mở các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, các buổi thao giảng, phối hợp mở các buổi hội giảng trao đổi về phương pháp giảng dạy, biện pháp giáo dục học sinh.

Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập, giao lưu trao đổi kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.

Thực hiện tốt công tác dân chủ trong nhà trường. Có biện pháp, chế độ tùy theo kết quả, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được phân công, tham mưu tốt với các ban ngành, đoàn thể đảm bảo quyền lợi của tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường.

Biện pháp 2: Biện pháp về hoạt động giảng dạy của giáo viên.

2.1. Biện pháp xây dựng nền nếp, kỷ cương trong hoạt động giảng dạy của giáo viên

Xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường. Quy chế chuyên môn trong nhà trường là một trong những công cụ để đánh giá quá trình lao động của người giáo viên. Việc thực hiện tốt quy chế chuyên môn trong nhà trường của giáo viên là yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng và hiệu quả của công tác giảng dạy.

Trên cơ sở: Quyết định số ………………. ngày …………… của Bộ trưởng

Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định về Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học; Quyết

định số ………………. ngày ……………… của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Quy định về đạo đức nhà giáo; căn cứ Điều lệ trường tiểu học; căn cứ văn bản chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo …………, phòng GD&ĐT ………… và căn cứ tình hình thực tế của đơn vị. Hiệu trưởng xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường như quy định về đạo đức, tác phong sư phạm, tác phong của nhà giáo, quy định giờ ra vào lớp, quy định về hồ sơ sổ sách, lịch trình duyệt các kế hoạch. Giáo viên soạn, giảng đủ môn, đủ tiết, số tiết dự giờ/ năm học, số lần tham gia sinh hoạt chuyên môn, duy trì sĩ số lớp… để đánh giá, xếp loại giáo viên.

Phát động phong trào thi đua “Dạy tốt – Học tốt”, tiến hành bàn giao số lượng, chất lượng (cụ thể từng đối tượng học sinh về nhận thức môn học, về năng lực, phẩm chất, về sở trường, về cá tính của học sinh…) của lớp dưới lên lớp trên để giáo viên mới có cơ sở xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm của năm học, đăng kí chỉ tiêu phấn đấu, xây dựng kế hoạch giảng dạy.

Phối hợp với Ban chấp hành công đoàn phát động phong trào “Kỷ cương -Tình thương – Trách nhiệm” qua đó vận động giáo viên chấp hành nghiêm túc quy chế chuyên môn của nhà trường.

2.2. Biện pháp chỉ đạo việc thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy của cấp quản lí giáo dục:

Việc tổ chức thực hiện chương trình và xây dựng kế hoạch giảng dạy của giáo viên là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục trong nhà trường nên Hiệu trưởng phải dựa trên cơ sở như: căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, các chỉ thị của ngành, của địa phương, căn cứ vào đặc điểm tình hình của đơn vị để xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình sao cho vừa đảm bảo chất lượngn vừa đảm bảo hoàn thành chương trình theo tinh thần chỉ đạo của ngành.

Dự kiến những vấn đề có thể nảy sinh, biện pháp khắc phục, biên chế nội dung chương trình cho cả năm học và cho từng thời điểm, lập thời khóa biểu cho các khối lớp.

Tập trung nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo về chuyên môn, nghiên cứu về nội dung, chương trình sách giáo khoa, căn cứ đặc điểm tâm lí của trẻ. Hướng dẫn tổ chuyên môn, giáo viên phối hợp với kế hoạch của nhà trường xây dựng kế hoạch giảng dạy, kế hoạch hoạt động phù hợp với đối tượng học sinh. Thực hiện chương trình một cách vừa và đủ đảm bảo tham gia các cuộc giao lưu mà cấp trên tổ chức, như tham gia Olympic Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh tiểu học cấp huyện, cấp tỉnh đối với học sinh lớp 5.

Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo Điều lệ trường tiểu học (Đảm bảo sinh hoạt 2 lần/tháng); nội dung sinh hoạt đa dạng, phong phú: trao đổi về phương pháp dạy học, trao đổi về kết quả nghiên cứu nội dung, chương trình sách giáo khoa, trao đổi về phương pháp xác định mục tiêu của bài học – xác định mảng kiến thức trọng tâm của một bài, một môn, trao đổi về biện pháp giáo dục học sinh, hướng dẫn học sinh trong học tập cũng như trong rèn luyện.

2.3. Biện pháp chỉ đạo thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên và việc lựa chọn đồ dùng dạy học của giáo viên.

Thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên là việc làm quan trọng, thực hiện quy chế chuyên môn trong trường tiểu học; là khâu mà bất kì giáo viên trực tiếp giảng dạy nào cũng phải có vì trong quá trình thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp giúp giáo viên có sự chuẩn bị, sự nghiên cứu về nội dung, tuy nó chưa phải là dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy để có biện pháp xử lí kịp thời đúng đắn. Thiết kế bài dạy được xem là công cụ để thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, thể hiện sự sáng tạo của giáo viên và cũng là một trong những việc làm góp phần quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường. Do đó, cần tập trung chỉ đạo việc thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên cụ thể như sau:

Triển khai các văn bản, các yêu cầu cơ bản về việc thiết kế bài dạy, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng đến tổ, khối, giáo viên.

Kế hoạch bài giảng của giáo viên phải thể hiện:

Mục tiêu đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học dành cho các đối tượng học sinh trong lớp.

Tăng cường trang bị về thiết bị, đồ dùng dạy học, khuyến khích giáo viên đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học phải phù hợp với nội dung bài, đồng thời trong quá trình chuẩn bị phải thể hiện được đồ dùng phục vụ cho người dạy và đồ dùng phục vụ cho người học vì đồ dùng dạy học rất quan trọng trong việc dạy học ở tiểu học giúp học sinh nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, đến thực tiễn. Ngoài đồ dùng trực quan sinh động mà giáo viên đã chuẩn bị thì còn hình ảnh trực quan sinh động hơn là người giáo viên: cần có giọng nói nhẹ nhàng, cử chỉ mềm mại, thái độ ân cần… sẽ thu hút sự chú ý học tập của học sinh cao hơn, tăng thêm sự hứng thú học tập của học sinh.

Nội dung cơ bản của kế hoạch dạy học phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài; mỗi hoạt động đều thể hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên; không ghi những vấn đề không cần thiết.

Nội dung bài soạn ngắn gọn, xúc tích đảm bảo kiến thức trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy (thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy – trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học, lớp học với đối tượng học sinh).

Hướng dẫn soạn những bài khó, tổ chức trao đổi, thống nhất chung các vấn đề liên quan đến giờ lên lớp, giúp đỡ giáo viên nhận lớp mới.

Quy định thời gian kí duyệt kế hoạch giảng dạy của giáo viên trước khi lên lớp thực hiện tiết dạy.

2.4. Biện pháp quản lí giờ lên lớp của giáo viên.

Giờ lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản và chủ yếu nhất của quá trình dạy học để thực hiện mục tiêu dạy học. Trong nhà trường tiểu học hoạt động dạy và hoạt động học là hai hoạt động chính. Hiện nay quá trình dạy học chủ yếu là diễn ra trong lớp học. Giờ lên lớp quyết định chất lượng dạy học cơ bản, trong đó giáo viên là người trực tiếp quyết định và chịu trách nhiệm. Do vậy, giờ lên lớp thể hiện rõ nhất trách nhiệm và khả năng của giáo viên. Vì vậy, Hiệu trưởng quản lí giờ lên lớp của giáo viên như:

Xây dựng nền nếp giờ lên lớp của giáo viên, thực hiện kiểm soát giờ lên lớp của giáo viên bằng thời khóa biểu, vào phân phối chương trình. Kiểm tra bài soạn, kiểm tra các loại hồ sơ sổ sách có liên quan đến giờ lên lớp, đảm bảo chế độ giờ lên lớp của giáo viên. Xử lí kịp thời trường hợp giáo viên bỏ lớp, giáo viên thực hiện không nghiêm túc chương trình.

Tổ chức thực hiện tốt kỉ luật lao động trong nhà trường, khuyến khích giáo viên thực hiện tốt giờ lên lớp (không ra sớm, vào muộn).

Thực hiện chương trình đảm bảo đúng quy chế chuyên môn, quy định của ngành; duy trì và thực hiện tốt giờ lên lớp.

2.5. Biện pháp quản lí việc dự giờ của giáo viên.

Dự giờ là công việc đặc thù, cơ bản, là biện pháp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho mỗi cá nhân giáo viên một cách hiệu quả nhất.

Căn cứ vào Điều lệ trường tiểu học thì đối với giáo viên số tiết dự giờ ít nhất 20 tiết/năm. Để công tác dự giờ có hiệu quả, trước khi dự giờ giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài, xác định mục tiêu, xác định mảng kiến thức trọng tâm, lựa chọn phương pháp, đồ dùng dạy học, dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy.

Tiến hành dự giờ: khi dự giờ không trao đổi, làm việc riêng mà tập trung theo dõi hoạt động của học sinh, thông qua các hoạt động, hệ thống câu hỏi, câu trả lời và cách đánh giá học sinh của người dạy.

Để có cơ sở đánh giá, đóng góp, xây dựng cho đồng nghiệp, để học tập ở đồng nghiệp, người dạy và người dự chú ý lắng nghe, bày tỏ quan điểm phân tích, chia sẻ sau giờ dạy để mỗi cá nhân rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân mình qua dự giờ của đồng nghiệp.

Căn cứ vào hướng dẫn cách đánh giá, xếp loại tiết dạy của giáo viên gồm 4 lĩnh vực: Kiến thức, kĩ năng sư phạm, thái độ sư pham, hiệu quả. Bốn lĩnh vực có điểm tối đa là 20; xếp loại: Tốt, Khá, Trung bình và Chưa đạt.

Biện pháp 3: Biện pháp chỉ đạo về kiểm tra- đánh giá kết quả việc học tập của học sinh

Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là thể hiện thành tích của giáo viên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ và sự chỉ đạo của nhà trường. Do đó, đánh giá với tinh thần không nghiêm túc, thái độ chưa khách quan, khuynh hướng nhận xét, đánh giá một cách hình thức, thiếu tinh thần trách nhiệm thì sẽ không khắc phục được những hạn chế mắc phải trong học sinh dẫn tới không chỉ hạn chế trong chất lượng giáo dục mà dẫn tới tiêu cực trong giáo dục, đánh giá không đúng, thiếu trung thực sẽ dẫn tới tình trạng nguy hiểm như học sinh ngồi nhầm lớp, ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục… Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề này, Hiệu trưởng có những biện pháp chỉ đạo như sau:

Triển khai, phổ biến các văn bản quy định về kiểm tra đánh giá và ghi điểm; lập kế hoạch kiểm tra đánh giá thường xuyên, đánh giá theo thời điểm và phổ biến các quy định về nền nếp kiểm tra sâu rộng trong tập thể cán bộ, giáo viên của nhà trường.

Tổ chuyên môn tiến hành nghiên cứu những quy định kiểm tra – đánh giá nhận xét học sinh, lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên và theo từng thời điểm. Nội dung kiểm tra học sinh theo thời điểm được đưa ra tập thể, tổ trao đổi cùng thống nhất nội dung ôn tập và ra đề kiểm tra. Ngoài đánh giá về năng lực, sự rèn luyện của học sinh còn đánh giá về các phong trào như: “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”, …Tổ chức thực hiện tốt theo quy định tại Thông tư 30/2014/TT- BGDĐT của Bộ GD&ĐT quy định về đánh giá xếp loại học sinh; căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để đánh giá và tiến hành đánh giá đúng thực lực của học sinh ở từng môn học.

Biện pháp 4: Biện pháp chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh

4.1. Xây dựng nề nếp, kỉ cương trong hoạt động học tập của học sinh:

Trong nhà trường, việc xây dựng nền nếp, kỉ cương có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó không chỉ là điều kiện để thực hiện tốt việc dạy và học trên lớp mà còn giáo dục học sinh ý thức, chấp hành tổ chức kỉ luật góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách ở học sinh. Do đó cần:

Xây dựng nội quy học sinh, triển khai sâu rộng trong giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh ngay từ đầu năm học. Đặc biệt người làm thầy phải chú ý lắng nghe ý kiến của người học để nghiên cứu và có biện pháp phát huy tài năng của học sinh và kịp thời uốn nắn giúp học sinh rèn luyện, phát triển đúng đắn hơn.

Giáo viên tìm hiểu tâm lí của học sinh, tìm hiểu về khả năng và nhu cầu của từng em để có biện pháp giáo dục đạo đức, có biện pháp giúp đỡ sự rèn luyện của học sinh. Tổ chức thi đua theo tổ, cá nhân học sinh về học tập, về lao động vệ sinh, về thực hiện nền nếp, thực hiện phong trào giúp bạn vượt khó,… tổ chức bình chọn học sinh gương mẫu, học sinh tích cực trong học tập,… vào cuối tuần, theo dõi thường xuyên và liên tục uốn nắn các hành vi của học sinh.

Phối hợp với Đoàn thanh niên – Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, phát động phong trào thi đua, động viên, khuyến khích học sinh chấp hành tốt nội quy, thường xuyên đánh giá xếp loại thi đua hàng tuần để kịp thời tuyên dương tập thể cá nhân có thành tích tốt, giúp cá nhân học sinh kịp thời điều chỉnh việc làm không phù hợp, khắc phục hạn chế của bản thân dần dần hoàn thiện nhân cách ở học sinh.

4.2. Biện pháp chỉ đạo nhằm giáo dục động cơ học tập của học sinh.

Hoạt động học tập là hoạt động cơ bản của học sinh, hoạt động này có hiệu quả cao hay không còn tùy thuộc vào tinh thần, thái độ học tập của các em. Vì vậy, là người làm nhiệm vụ trồng người cần phải có biện pháp giáo dục cho học sinh tính tự giác trong học tập, thông qua các tiết dạy giáo viên thường xuyên động viên khích lệ sự vươn lên trong học sinh, giáo dục và ươm mầm ước mơ, khơi dậy hoài bão ở mỗi em.

Tổ chức các kỳ giao lưu, Câu lạc bộ,.. tạo cơ hội cho học sinh thể hiện tài năng của mình, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện niềm đam mê trong học tập.

Giáo dục học sinh thông qua các tiết giáo dục tập thể đầu tuần, giáo dục ngoài

giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt Đội, sinh hoạt Sao,… nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn trong năm. Giáo dục trong tiết sinh hoạt cuối tuần, trong tiết dạy, qua bài học, qua việc làm tốt của bạn, qua kết quả học tập của bạn, của bản thân học sinh,…

Thông qua quá trình thực hiện tiết dạy của giáo trên lớp nên tạo ra cơ hội cho học sinh phát biểu ý kiến, học sinh tích cực xây dựng bài, giáo dục cho học sinh hiểu học tập vừa là quyền được học lại vừa là nhiệm vụ của các em. Tạo ra nhu cầu hứng thú về sự hiểu biết dần dần hình thành nhu cầu học tập với tinh thần tự giác, thái độ đúng đắn.

4.3. Biện pháp chỉ đạo tổ chức phối hợp các hoạt động học tập chính khóa và ngoại khóa:

Để giúp học sinh hoàn thiện và phát triển hơn về năng lực và phẩm chất thì cần có sự phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh, của chính quyền địa phương chung tay tuyên truyền, vận động để cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt cho con mình học tập ở trường cũng như học tập ở nhà: nên tạo cho các em thời gian biểu hợp lí, thường xuyên nhắc nhở, động viên con học tập, kiểm tra sách vở của con một cách thường xuyên,…

Cùng với giáo viên chủ nhiệm giáo dục con mình phát triển toàn diện, giáo dục đạo đức, giáo dục tính trung thực trong mỗi lĩnh vực, biết đọc sách, tự ôn lại bài trên lớp và xem trước bài học sau.

4.4. Biện pháp chỉ đạo về việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng các môn học.

Căn cứ hồ sơ tuyển sinh, biên bản bàn giao chất lượng lớp dưới lên lớp trên và kết quả khảo sát đầu năm, Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn, giáo viên chịu trách nhiệm có kế hoạch và biện pháp bồi dưỡng học sinh năng khiếu và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học. Giáo viên chủ nhiệm phân đối tượng học sinh, tìm hiểu nguyên nhân học sinh nhận thức, tính toán chậm để có biện pháp giảng dạy và giáo dục phù hợp, nâng dần chất lượng giáo dục bằng nhiều hình thức:

Xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp, cải tiến phương pháp dạy học theo đối tượng học sinh, quan tâm và kịp thời giúp đỡ học sinh nhận thức, tính toán chậm bằng cách giao việc phù hợp, nâng dần, động viên, tạo cơ hội cho học sinh hòa nhập với tập thể, cũng như quan tâm, giúp đỡ học sinh nhận thức, tính toán chậm, công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu cũng là một trong những công tác mũi nhọn của nhà trường. Giáo viên không nên xem thường mà không chuẩn bị riêng cho những học sinh này bài tập, câu hỏi khó thì có nguy cơ gây ra sự nhàm chán đối với các em vì với các bài tập ở sách giáo khoa các em đều làm được. Thời gian còn lại các em chỉ ngồi chờ nếu cứ lập đi lập lại tình trạng này thì sẽ gây ức chế hưng phấn học tập của học sinh, kiềm hãm sự phát triển tư duy của trẻ. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên phải hết sức chú ý và giao việc phù hợp cho học sinh mới phát triển tài năng của tuổi thơ.

Biện pháp 5: Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội

Gia đình – nhà trường và xã hội là mối quan hệ không thể thiếu trong nhà trường phổ thông đặt biệt là trong trường tiểu học. Nhà trường phối hợp ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức và cá nhân nhằm thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Nhằm huy động mọi lực lượng của cộng đồng tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh. Là cánh tay đắc lực hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần cho tập thể cán bộ, giáo viên tạo điều kiện trang bị đồ dùng dạy học, là nguồn động viên lớn đối với ý thức học tập và rèn luyện của học sinh.

3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

Qua quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, tìm hiểu về thực trạng của đơn vị và đề ra một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học của trường Tiểu học …………. đã được áp dụng trong năm học vừa qua (năm học ……..) với những kết quả khả quan cụ thể như sau:

1. Biện pháp xây dựng đội ngũ trong tập thể sư phạm: 100% giáo viên không vi phạm quy chế, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Kết quả đạt được tập thể vững mạnh.

2. Biện pháp về hoạt động giảng dạy của giáo viên:

Kết quả đạt được năm học ….:

* Học kỳ I:

+ Hồ sơ: xếp loại Tốt: 8/11 bộ = 72,7%; Khá: 3 /11 = 27,3%

+ Chuyên môn: Tốt: 7/11 = 63,6%; Khá: 4/11= 36,4%

* Học kỳ II:

+ Hồ sơ: xếp loại Tốt: 9/11 bộ = 81,8 %; Khá: 2 /11 = 18,2%

+ Chuyên môn: Tốt: 8/11 = 72,7%; Khá: 3/11 = 27,3%

3. Biện pháp chỉ đạo về việc kiểm tra – đánh giá kết quả việc học tập của học sinh:

* Chất lượng học sinh qua các kì nhà trường khảo sát:

+ Môn Tiếng Việt:

Năm học

TSHS
Khảo sát

Học sinh hoàn thành KT, KN môn học

Học sinh chưa hoàn thành KT, KN môn học

TS

%

TS

%

Học kì I

118

96

81,4

22

18,6

Học kì II

118

104

88,1

14

11,9

+ Môn Toán:

Năm học

TSHS
Khảo sát

Học sinh hoàn thành KT, KN môn học

Học sinh chưa hoàn thành KT, KN môn học

TS

%

TS

%

Học kì I

118

95

80,5

23

19,5

Học kì II

118

102

86,4

16

13,6

4. Biện pháp chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh:

Kết quả giáo dục học sinh có sự nâng lên rõ rệt: môn Tiếng Việt số học sinh hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học ở học kì I là 81,4%, học kì II tăng lên 88,1% (tăng lên 6,7%); môn Toán số học sinh hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học ở học kì I là 80,5%, học kì II tăng lên 86,4% (tăng lên 5,9%). Ngoài nâng cao chất lượng giáo dục đại trà còn góp phần nâng cao chất lượng công tác mũi nhọn trong nhà trường: Năm học 2016 – 2017, nhà trường có 5 học sinh tham gia Olympic Tiếng Việt tiểu học cấp huyện, trong đó có 3 học sinh đạt giải (Giải Nhì: 1em; giải Ba: 2 em); có 1 học sinh tham gia cấp tỉnh và đạt giải Khuyến khích.

* Tóm lại: Qua biểu thống kê cho thấy chất lượng đội ngũ, chất lượng giáo dục học sinh trong năm học vừa qua của nhà trường đã có sự chuyển biến rất rõ rệt giữa học kì I so với học kì II của năm học. Số học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng theo quy định giảm so với học kì I, đây là kết quả bước đầu mà bản thân tôi thiết nghĩ mình cần phải có những biện pháp, những kinh nghiệm có giá trị hơn nữa để chỉ đạo bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở nhà trường ngày một nâng cao.

III. KẾT LUẬN

1. Kết luận:

Kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của sáng kiến kinh nghiệm là đúng đắn. Qua đó nhận thức của mọi người về biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học trong trường tiểu học được nâng cao.

Kết quả đã xác định rõ thực trạng biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học trong trường tiểu học nói chung và biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói riêng.

Trong quá trình thực hiện công tác quản lí chuyên môn điều làm tôi trăn trở nhất là làm thế nào để công tác giáo dục trong nhà trường ngày một chất lượng, tay nghề của giáo viên ngày càng nâng cao? Đây chính là động lực thôi thúc tôi không ngừng nghiên cứu phương pháp đổi mới công tác quản lí, tìm ra những biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện bản thân tôi gặp cũng rất nhiều khó khăn nhưng được sự ủng hộ nhiệt tình của đồng chí Hiệu trưởng, hai đồng chí Tổ trưởng chuyên môn cũng như đội ngũ giáo viên trẻ năng động, đoàn kết, sáng tạo nên tôi đã hoàn thành tốt công việc của mình. Nhà trường đã từng bước tạo được uy tín đối với ngành cũng như từ phía cha mẹ học sinh.

Những thành quả trên đã chứng minh một điều: Con đường tôi đi là đúng đắn và tôi sẽ không dừng lại ở đó mà còn phải cố gắng phấn đấu hơn nữa để duy trì và phát huy những kết quả đạt được trên con đường giáo dục lâu dài của mình.

2. Những kiến nghị, đề xuất:

Để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số nội dung sau:

2.1. Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy:

Ngay từ đầu năm học điều tra, nắm được đặc điểm tâm lí, hoàn cảnh của học sinh để có biện pháp giảng dạy và giáo dục tốt hơn.

Thiết kế bài dạy phù hợp với các đối tượng học sinh, chú ý dạy học phân hóa đối tượng.

2.2. Đối với Lãnh đạo nhà trường:

Vào đầu mỗi năm học tổ chức khảo sát chất lượng học sinh, giao chất lượng cụ thể cho giáo viên giảng dạy.

Duy trì tổ chức Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường.

Tổ chức Olympic Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh cấp trường từ lớp 1- lớp 5.

Thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng trong trường.

Làm tốt công tác nghiệm thu, bàn giao chất lượng học sinh cuối năm học.

2.3. Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:

Hàng năm, tổ chức các chuyên đề tập huấn, bồi dưỡng cho các bộ quản lí, giáo viên về chuyên môn, nghiệp vụ, công tác chỉ đạo, quản lí.

Duy trì tổ chức Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện.

Tổ chức Olympic Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh dành cho học sinh lớp 4 và 5.

Hàng năm, tham mưu với UBND huyện ổn định đội ngũ giáo viên, tạo điều kiện cho nhà trường thực hiện việc bồi dưỡng đội ngũ để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.

Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học …. mà tôi đã thực hiện và kết quả đã đạt được trong việc nâng cao chất lượng học sinh, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý của đồng nghiệp và các nhà quản lí để nâng cao chất lượng dạy học ở trường Tiểu học ……………….. nói riêng và chất lượng giáo dục tiểu học huyện ……………… nói chung, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học …….

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

……….., ngày…tháng…năm….

Người viết

Trên đây THPT Đông Thụy Anh.vn đã gửi tới các bạn Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở Tiểu học. Từ đó các thầy cô có tài liệu hữu ích để tham khảo nhằm hoàn thiện bài thu hoạch hoặc sáng kiến kinh nghiệm của mình.

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục đào tạo trong mục biểu mẫu nhé.

Tác giả: Trường THPT Đông Thụy Anh

Chuyên mục: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button

Bạn đang dùng trình chặn quảng cáo!

Bạn đang dùng trình chặn quảng cáo!